c

Lời kêu cứu “Cải lương sắp chết rồi” của NSND Lệ Thủy khiến nhiều người đặt câu hỏi vì sao nghệ thuật từng rực rỡ của Việt Nam lại dần lụi tàn, trong khi Hàn Quốc và Trung Quốc biết cách làm mới, đưa văn hóa truyền thống hòa vào đời sống hiện đại?

Cải lương trước tình trạng ‘sắp chết rồi’

Trăm năm đã đi qua, cải lương từng là niềm kiêu hãnh của sân khấu Việt Nam. Từ buổi đầu của thế kỷ XX, bộ môn này phát triển mạnh mẽ tại vùng đất Nam Bộ, dung hòa giữa ca diễn và tạo nên loại hình đặc sắc mang tên “cải lương”, mà theo NSND Bạch Tuyết giải thích là rút ngắn từ hai câu “Cải cách hát ca theo tiến bộ/Lương truyền tuồng tích sánh văn minh”.

Từ gánh hát trên ghe đến những sân khấu tạm bợ, sau cùng cải lương phát triển rực rỡ, bước vào thời cực thịnh của thế kỷ 20, trở thành biểu tượng văn hóa của cả một vùng đất.

Thập niên 1960-1970 là giai đoạn huy hoàng nhất. Khi ấy, mỗi đêm, rạp Hưng Đạo, Thủ Đô, Quốc Thanh, Kim Chung… sáng đèn. Hàng loạt ngôi sao được khán giả thuộc lòng tên tuổi, từ Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thành Đạt, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Mỹ Châu, Minh Vương, Thanh Nga, Thanh Sang, Diệp Lang, Hồng Nga, Ngọc Giàu, Thanh Tuấn… đều trở thành tượng đài của giới cải lương.

Nhiều người trong số họ bước ra từ Giải Thanh Tâm, cuộc thi danh giá do ký giả Trần Tấn Quốc khởi xướng năm 1958, được xem là “lò luyện vàng” của sân khấu miền Nam, tạo ra những danh hiệu “đào thương”, “đào độc”, “kép chính” vang lên là đủ khiến rạp chật kín khán giả.

c d

Nghệ thuật cải lương trải qua hàng trăm năm hình thành, phát triển và bước vào giai đoạn thoái trào

Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, cải lương bước sang chương mới với hàng loạt vở diễn tôn vinh lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước của dân tộc. Những vở diễn đầy hào khí như Tìm lại cuộc đời, Khách sạn hào hoa, Tiếng trống Mê Linh, Thái hậu Dương Vân Nga, Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt, Tiếng hò sông Hậu… trở thành tiếng nói của thời đại. Dàn nghệ sĩ tên tuổi trước năm 1975 vẫn tiếp tục cống hiến, mang hơi thở của dân tộc vào những vở diễn đậm tinh thần yêu nước và nhân văn.

Bước sang thập niên 1990-2000, cải lương thích nghi với sự thay đổi của xã hội bằng một hình thức mới là video cải lương. Khi khán giả không còn đến rạp nhiều, nghệ sĩ đem sân khấu vào từng ngôi nhà.

Những băng VHS, đĩa VCD in hình Vũ Linh, Tài Linh, Thanh Hằng, Ngọc Huyền, Thanh Ngân, Kim Tử Long… được truyền tay khắp nơi, mở ra thời kỳ video cải lương. Đây là giai đoạn nhà nhà được thưởng thức cải lương, thỏa mãn phần nghe nhìn từ những tên tuổi nổi tiếng nhất giới cải lương lúc bấy giờ.

Thế nhưng, bước qua những năm 2000, khi truyền hình, Internet và âm nhạc giải trí lên ngôi, sân khấu truyền thống bắt đầu chững lại. Năm 2006, đài HTV khai sinh cuộc thi Chuông vàng vọng cổ, nỗ lực tìm lại sức sống cho nghệ thuật dân tộc.

Cuộc thi đã phát hiện nhiều gương mặt trẻ như Võ Minh Lâm, Như Huỳnh, Bùi Trung Đẳng, Ngọc Đợi, Võ Thành Phê, Minh Trường, Nhã Thi, Thu Vân… Họ là những người vẫn bền bỉ gắn bó với nghề, nhưng chưa ai tạo được cú hích để đưa cải lương trở lại thời hoàng kim.

Từ thời đại của những Bạch Tuyết, Lệ Thủy cho đến thế hệ Chuông vàng vọng cổ hôm nay, đã là một quãng đường dài. Cải lương từng có thời rực rỡ, từng in sâu trong ký ức người Việt. Nhưng giờ đây, sân khấu chỉ còn lại những đêm diễn thưa khách, những suất hát cầm chừng và nghệ sĩ vẫn gồng mình giữ nghề.

Đó là bức tranh thực tế buồn mà chính NSND Lệ Thủy, người đã cống hiến cả đời cho sân khấu, phải cầu cứu: “Cải lương sắp chết rồi”.

Đời sống của nghệ sĩ cải lương cũng phản ánh rõ thực tế. Không ít người từng đoạt giải thưởng lớn giờ phải đi hát đám tiệc, tham gia game show hoặc làm thêm nhiều nghề để sống. Ngoại trừ những tên tuổi lớn như Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Minh Vương, Thanh Tuấn… vẫn còn được công chúng yêu mến, phần đông nghệ sĩ khác đang loay hoay giữa đam mê và mưu sinh.

“Ngày xưa, cải lương là niềm vui của cả xóm. Giờ con cháu tôi chẳng biết ai là ai”, bình luận của một khán giả cho thấy khoảng cách giữa nghệ thuật truyền thống và công chúng đang ngày càng xa, trong khi những nỗ lực đổi mới chưa đủ mạnh để rút ngắn lại.

Đau đáu tìm cách cứu cải lương

Nếu Việt Nam loay hoay tìm cách cứu cải lương, thì ở nhiều quốc gia châu Á, họ gần như có lời giải cho bài toán bảo tồn nghệ thuật truyền thống. Họ đưa nghệ thuật cổ điển vào đời sống hiện đại bằng sự sáng tạo, công nghệ và chiến lược dài hơi.

Ở Hàn Quốc, pansori – loại hình hát kể dân gian được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể – từng rơi vào cảnh tương tự cải lương, ít nghệ sĩ, khán giả thuộc người lớn tuổi, sân khấu trống vắng. Chính phủ Hàn Quốc đã đánh thức di sản truyền thống bằng cách kết nối với người trẻ.

Những năm gần đây, pansori không chỉ xuất hiện trong các nhà hát, mà còn bước ra ngoài đường phố, lên truyền hình và phổ biến trên mạng xã hội. Đài KBS đều đặn tổ chức các cuộc thi Pansori Competition of Korea, thu hút hàng triệu lượt xem. Các nghệ sĩ trẻ như Park Aeri hay nhóm Leenalchi đã mang pansori kết hợp nhạc điện tử, pop và hip-hop, tạo nên những bản hit như Tiger Is Coming, video quảng bá du lịch Hàn Quốc đạt hơn 70 triệu lượt xem.

Giới trẻ Hàn không còn nhìn pansori như nghệ thuật của người già. Họ cover nhạc pop bằng pansori, remix nhịp trống truyền thống trên nền EDM. Thậm chí, trong nhiều lễ hội quốc gia, pansori được biểu diễn song song với các nhóm Kpop. Nhà nước vẫn bảo trợ nghệ nhân, nhưng cách làm mới bằng cách trẻ hóa, thương mại hóa hợp lý mới là yếu tố giúp pansori sống khỏe.

Còn tại Trung Quốc, nghệ thuật truyền thống không chỉ được bảo tồn mà còn trở thành mỏ vàng của ngành công nghiệp du lịch và giải trí. Ở Hàng Châu, show ngoài trời Impression West Lake do đạo diễn Trương Nghệ Mưu dàn dựng đã chứng minh điều đó.

b

a
Nghệ thuật truyền thống Trung Quốc được đầu tư mạnh, tạo thành ngành kinh tế hái ra tiền

Dựa trên chất liệu dân ca và Kinh kịch, chương trình sử dụng sân khấu nổi giữa hồ, ánh sáng laser, công nghệ AR, thu hút hơn một triệu lượt khán giả mỗi năm, trong đó phần lớn là khách quốc tế. Trải nghiệm văn hóa đem lại doanh thu hàng trăm triệu nhân dân tệ.

Cũng trên truyền hình, các chương trình như National Treasure hay Everlasting Classics của CCTV giúp Kinh kịch, nhạc dân gian, cổ phục và thư pháp trở nên phổ biến. Giới trẻ Trung Quốc bắt đầu xem biểu diễn nghệ thuật như một phần văn hóa giải trí, điều mà những bộ môn nghệ thuật truyền thống Việt Nam, trong đó có cải lương vẫn chưa thực hiện được.

Ở các học viện sân khấu Bắc Kinh và Thượng Hải, sinh viên Kinh kịch được học song song kỹ năng biểu diễn và kỹ thuật trình chiếu, ánh sáng, video mapping. Nhiều nhà hát đã áp dụng công nghệ 3D, VR để tái hiện cảnh trí xưa, giúp khán giả vừa thưởng thức nghệ thuật, vừa tương tác như đang sống trong vở diễn.

Cách làm của Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy họ cởi mở, đặt nghệ thuật truyền thống vào đời sống hiện đại, để khán giả thấy gần gũi, đáng bỏ tiền ra xem. Nếu áp dụng tại Việt Nam, cải lương cần hòa vào dòng chảy của ngành công nghiệp văn hóa, thay vì chỉ hoạt động cầm chừng như hiện tại.

Một số khán giả trẻ đề xuất tổ chức livestream cải lương như các buổi diễn nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc, Hàn Quốc từng làm. Số khác cho rằng cần gắn cải lương với du lịch, giống mô hình Impression West Lake như những đêm diễn ngoài trời kể lại tích xưa bằng ngôn ngữ sân khấu dân tộc. Cần có những đêm diễn cải lương để phục vụ khán giả mỗi tuần, đưa sân khấu sáng đèn trở lại.

Quan trọng hơn, cải lương cần có kịch bản mới, kể những câu chuyện thời đại bằng chất liệu truyền thống. Khán giả hiện đại không còn kiên nhẫn với những mâu thuẫn hận thù, chia ly cũ kỹ. Họ cần thấy mình trong đó, với những câu chuyện nhân văn thời đại qua lời ca tiếng hát mang âm hưởng dân tộc.

Nếu được đầu tư nghiêm túc và định hướng đúng, cải lương hoàn toàn có thể bước ra khỏi giai đoạn hấp hối như lời NSND Lệ Thủy nói. Như một khán giả đã bình luận “nghệ thuật không bao giờ chết, chỉ là đang chờ cách sống mới”.

Trạch Dương

Nguồn: https://tienphong.vn/cai-luong-tu-cuc-thinh-den-sap-chet-roi-post1788810.tpo